Thứ 2, 08/07/2024, 19:51[GMT+7]

Người làm vẻ vang sông núi nước Nam

Thứ 2, 28/03/2022 | 09:03:42
2,370 lượt xem
Lê Trọng Thứ người xã Diên Hà, tổng Diên Hà, huyện Diên Hà, phủ Tiên Hưng (nay là thôn Phú Hiếu, xã Độc Lập, huyện Hưng Hà), lúc nhỏ còn có tên là Lê Phú Thứ. Ông sinh năm 1693 và mất năm 1782.

Làng Hải Triều (làng Hới), huyện Hưng Hà - làng nghề truyền thống nổi tiếng với sản phẩm chiếu Hới. Ảnh tư liệu

Thuở nhỏ ông đã có tiếng học giỏi, từ khi đi thi Hương ở Sơn Nam đến khi lên học ở Quốc Tử Giám, bài làm của ông đều được phê điểm ưu. Ông thi đỗ Tiến sĩ năm Giáp Thìn, Bảo Thái năm thứ 5 (1724) lúc ông 31 tuổi. Sau đó ông được bổ nhiệm vào Viện Hàn lâm, năm 79 tuổi ông về hưu lần thứ hai. Ông đã trải qua các chức: Đông các hiệu thư, Giám sát ngự sử Hải Đông (Hải Dương) Kinh Bắc, Thiêm đô ngự sử, Phó đô ngự sử, Tả thị lang bộ Hộ, Nhập nội bồi trung, kiêm tả chánh ngôn, Thượng thư bộ Hình. Về tước vị ông được phong từ tước bá “Diên Phương bá” đến tước hầu “Diên Phái hầu”. Khi qua đời ông được tặng hàm Thái bảo, tước Hà Quân công. 

Ông còn có hiệu Trúc Am và có “Trúc Am thi văn tập”. Lê Trọng Thứ là một người cha mẫu mực, một ông quan cần mẫn liêm chính, thẳng thắn trung thực, hết lòng vì dân vì nước. Khi công danh tột đỉnh cũng như khi đắc chí bị đuổi về quê, ông luôn luôn sống giản dị, kính già yêu trẻ.
Nhìn vào chức tước ta không thể hình dung nổi cuộc đời làm quan của ông biết bao thăng trầm, trắc trở. Sử sách viết: “Trọng Thứ là người chất phác, bộc trực, dám nói thẳng, là một chỗ dựa vững chắc của triều đình” (Việt sử thông giám cương mục - chính biên tập XVIII trang 81, Nhà xuất bản Sử học).

Chúa Trịnh Doanh cũng khen ông là người “Chất trực cảm ngôn” (trung thực, dám nói thẳng) và ban cho ông bốn chữ “Đặc huệ hảo ân” (ân huệ đặc biệt danh tiếng tốt đẹp). Song vì “trung ngôn nghịch nhĩ”, nói thẳng thì khó nghe mà cuộc đời ông phải trải qua bao thăng trầm. Để cuối cùng mới có được những lời ban khen ấy.
Lê Trọng Thứ đã từng bị giáng chức, cách chức:

- Một lần khi Tiến sĩ Trần Hiền bị Trần Cảnh vì thù riêng mà vu oan, ông đã dám đương đầu bảo vệ cho Trần Hiền (Hiền là thầy dạy Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ - 2 thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân) để rồi bị giáng chức đi làm Giám sát Hải Đông.
- Vì tranh luận với Nguyễn Công Hằng về hình luật, ông bị giáng chức xuống hai bậc, bị giải nhiệm, không được bàn việc ở viện Cơ mật.

- Ông còn dâng khải kể 7 tội của Đỗ Thế Giai... và cuối cùng sau 7 năm làm việc ông bị cách chức cho về quê (1731 - 1740). Tháng Giêng năm 1740, ông được phục chức trở lại làm việc. Lê Trọng Thứ không chỉ đối mặt với “quan tham” mà ngay cả với chúa Trịnh ông cũng từng phê phán những việc làm không đúng. Khi chúa Trịnh cho nghênh rước tượng Phật vào phủ lập đàn làm chay, ông hạch rằng: “Hiện nay dân tứ trấn tài hao lực tốn, không nên làm sự phí phạm vì chuyện nhảm mà mê hoặc cho đời sau”. Cùng với những lời hặc tấu là những lời khải tấu có lợi cho dân cho nước.

Trịnh Doanh đặt một cái ống đồng ở cửa phủ cho mọi người có việc hoặc bị oan ức làm tờ tố cáo bỏ vào trong ống, cứ năm ngày người có trách nhiệm đem ống đến trình... Khi xét nghiệm ra, phần nhiều không đúng sự thực, Trọng Thứ làm tờ khải nói: “Bây giờ lòng người không được như đời cổ, sự yêu ghét chưa chắc đã hết thảy được công bằng. Nếu muốn phân biệt rõ kẻ hay người dở thì nên cho các quan trình bày đầy đủ bằng lời nói, rồi thử thách công việc xem có đúng với lời nói không, xét sự thực, tìm công trạng, chứ không nên mở cửa tố cáo bí mật, chỉ làm thêm lòng gian trá về việc bới móc lẫn nhau, bè đảng với nhau mà thôi”.

Một lần Trịnh Doanh hỏi ông về lão thần quận Triệu Nguyễn Huy Nhuận (bị Đỗ Thế Giai dèm pha) ông nói:  “Các bậc lão thần có danh vọng đối với nhà nước cũng như những cây cao đối với cánh rừng. Rừng không thể một lúc mọc ngay cây to. Triều đình không phải một khoa thi mà kén chọn được ngay người tài giỏi, lịch duyệt. Bây giờ nếu để cho bìm bìm leo đổ đại thụ, bậc lão thần có danh vọng, chỉ vì mấy lời dèm pha mà bị cách chức thì còn ai không lo cho thân phận mình”.
Cũng nhân việc này ông dâng khải trình bày về việc trọng hiền đãi sĩ. Những việc của dân, ông cũng từng mạnh dạn tâu trình. Có lần ông nói với Trịnh Doanh: “Nhà nước đã thu thuế ruộng mấy lần, nay lại đánh thuế các hộ làm muối, chỉ có một mảnh đất mà mấy lần đóng thuế. Như vậy, dân nghèo khó bề nuôi sống vợ con”. Chúa Trịnh nghe ông, bãi bỏ thuế muối.

Một lần ưu binh làm loạn, Trịnh Doanh định đưa quân đến đàn áp, ông nói: “Không nên vì tổ kiến để vỡ chiếc đê dài”. Rồi ông tình nguyện đi gặp ưu binh. Trịnh Doanh hỏi ông: “Ông nghè Diên Hà là quan văn mà đi phủ dụ ưu binh không sợ sao?”. Ông nói: “Vì việc nghĩa mà đi thì có gì đáng sợ. Vả lại tôi đã từng về vườn ruộng tám chín năm liền, danh lợi không màng chi cho lắm nữa. Nay gặp họ, tôi sẽ đem điều hơn lẽ thiệt giảng giải tình lý phân minh chắc họ cũng không nỡ hành hung”. Và quả thực bằng lời nói, bằng tấm gương sáng về đạo đức của mình, ông đã giải tán được đám ưu binh, tránh được một cuộc đổ máu. Sau vụ này Trịnh Doanh nói với ông: “Thầy vốn có tiếng là người trung thực. Nay lại được cử làm chức giám quan, ta mong thầy Ngự sử Diên Hà đừng để phụ lòng ủy thác của triều đình”. Lê Trọng Thứ đã làm được điều đó.

65 tuổi ông xin về hưu. Trịnh Doanh không đành được, cho ông về. Chỉ một năm sau lại triệu ông ra làm quan, định giữ lại ở phủ chúa nhưng có lời bàn: “Phủ liêu giữ việc chính trị, Ngự sử đài giữ việc can ngăn. Mỗi người đều có nhiệm vụ phải làm. Nếu nay đem Trọng Thứ đặt vào công việc chính phủ, thì sự lầm lỗi của triều đình lấy ai sửa chữa cho đúng đắn được?”.

Con người Lê Trọng Thứ là như thế. Đạo đức của ông đã có ảnh hưởng lớn đến con trai là Lê Quý Đôn. Khi hai cha con làm quan đồng triều, Vua Lê Cảnh Hưng đã khen ngợi: “Cha con ngươi thực làm vẻ vang cho sông núi nước Nam. Hãy cố gắng hơn nữa để khỏi phụ lòng xã tắc”.

Lê Trọng Thứ mất cách đây 240 năm song tấm gương về đạo đức trong sáng của ông, đức tính “chất trực cảm ngôn” là gương sáng để đời sau noi theo. Tương truyền khi trí sĩ lần thứ hai ông đã lập ra “Phụng thành thập lục lão hồi” nhưng đến nay chưa rõ hoạt động và cũng không có thơ văn. Riêng ông có “Trúc Am thi tập, Trúc Am văn tập” và “Lê công khải sự cảnh hành lúc” (văn triết).

Phạm Minh Đức